Bã đậu nành là gì? Các công bố khoa học về Bã đậu nành

Bã đậu nành là chất thải sinh hoạt của quá trình chế biến đậu nành. Khi hạt đậu nành được ép để lấy dầu hoặc chế biến thành các sản phẩm khác như đậu phụ, đậu h...

Bã đậu nành là chất thải sinh hoạt của quá trình chế biến đậu nành. Khi hạt đậu nành được ép để lấy dầu hoặc chế biến thành các sản phẩm khác như đậu phụ, đậu hũ, bã đậu nành sẽ được tách ra. Bã đậu nành là phần còn lại sau khi dầu đã được chiết xuất ra, nó chứa nhiều thành phần dinh dưỡng như protein, chất xơ và các khoáng chất. Bã đậu nành được sử dụng trong các ngành công nghiệp thức phẩm, chăn nuôi gia súc và gia cầm, cũng như làm nguyên liệu trong sản xuất phân bón hữu cơ và viên nén đốt cháy trong ngành năng lượng sinh học.
Bã đậu nành là sản phẩm được thu được sau khi đậu nành đã qua quá trình chế biến, bao gồm nghiền, ép hoặc xay nhuyễn. Thông thường, bã đậu nành là phần còn lại sau khi dầu đậu nành đã được chiết xuất ra.

Bã đậu nành chứa nhiều thành phần dinh dưỡng quan trọng như protein, chất xơ và các khoáng chất. Được coi là một nguồn thức ăn đạm thực vật, bã đậu nành được sử dụng rộng rãi trong ngành chăn nuôi gia súc và gia cầm như một nguồn thức ăn bổ sung. Protein trong bã đậu nành cung cấp các axit amin cần thiết cho sự phát triển và tăng trưởng của động vật.

Bên cạnh đó, bã đậu nành cũng được sử dụng trong ngành công nghiệp thức ăn cho động vật. Nó có thể được chế biến thành bã đậu non hoặc bã đậu khô, sau đó được sử dụng như một nguồn thức ăn giàu chất xơ và protein cho gia súc và gia cầm. Bã đậu nành cũng có thể được sử dụng để sản xuất thức ăn chăn nuôi, thức ăn cho cá và một số loại thức ăn chức năng.

Ngoài ra, bã đậu nành cũng có thể được sử dụng làm nguyên liệu để sản xuất phân bón hữu cơ. Phần chất xơ có trong bã đậu nành có khả năng cung cấp dưỡng chất cho cây trồng và giúp tăng độ mềm mại và thoáng mát của đất.

Ngoài các ứng dụng trong ngành chăn nuôi và nông nghiệp, bã đậu nành cũng có thể được sử dụng để sản xuất viên nén đốt cháy trong ngành năng lượng sinh học. Viên nén bã đậu nành có thể được đốt cháy để tạo nhiệt, giúp cung cấp năng lượng thay thế cho các nguồn năng lượng hóa thạch truyền thống và giảm lượng khí thải gây ô nhiễm môi trường.

Tóm lại, bã đậu nành là sản phẩm chất thải của quá trình chế biến đậu nành, được sử dụng rộng rãi trong ngành chăn nuôi và gia cầm, ngành công nghiệp thức ăn và phân bón hữu cơ, cũng như làm nguyên liệu trong sản xuất viên nén đốt cháy trong ngành năng lượng sinh học.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "bã đậu nành":

Thay thế một phần bột cá bằng bột đậu nành lên men trong khẩu phần ăn cho cá mú đen, Acanthopagrus schlegelii, giai đoạn giống Dịch bởi AI
Journal of the World Aquaculture Society - Tập 42 Số 2 - Trang 184-197 - 2011

Đã nghiên cứu ảnh hưởng của việc thay thế bột cá (FM) bằng bột đậu nành lên men (FSBM) trong khẩu phần ăn của cá mú đen Acanthopagrus schlegelii. Một thử nghiệm cho ăn kéo dài 8 tuần đã được thực hiện với cá mú đen (11.82 ± 0.32 g; trọng lượng khởi đầu trung bình) trong các bể kính sợi thủy tinh sử dụng hệ thống dòng chảy trong nhà (25 con cá mỗi bể). Sáu khẩu phần ăn có hàm lượng đạm và năng lượng tương đương đã được lập ra, trong đó FM được thay thế bằng FSBM với tỷ lệ 0% (khẩu phần đối chứng), 10% (FSBM10), 20% (FSBM20), 30% (FSBM30), 40% (FSBM40) hoặc 50% (FSBM50) tương ứng. Mỗi khẩu phần được cho cá ăn 2 lần mỗi ngày cho đến khi no rõ ràng. Kết quả cho thấy không có sự khác biệt về tỷ lệ sống sót của cá mú đen trong suốt thử nghiệm cho ăn. Cá ăn khẩu phần FSBM10 hoặc FSBM20 cho thấy hiệu suất tăng trưởng tương đương so với cá ăn khẩu phần đối chứng (P > 0.05), trong khi việc thay thế FM hơn 30% đã ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trọng lượng và tỷ lệ tăng trưởng đặc trưng (P < 0.05). Lượng thức ăn tiêu thụ của cá ăn khẩu phần FSBM50 thấp hơn đáng kể so với cá ăn khẩu phần đối chứng. Tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR) có xu hướng tăng với sự gia tăng tỷ lệ FSBM trong khẩu phần, với FCR thấp nhất được quan sát thấy ở cá ăn khẩu phần FSBM50. Tỷ lệ hiệu quả protein và giá trị sản xuất protein cho thấy các mẫu hình tương tự. Độ tiêu hóa rõ rệt của các chất dinh dưỡng giảm đáng kể với sự gia tăng hàm lượng FSBM trong khẩu phần ăn. Ngoại trừ hàm lượng protein, không có sự khác biệt đáng kể nào về thành phần cơ thể toàn bộ và cơ lưng ở cá ăn các khẩu phần khác nhau. Cá ăn khẩu phần FSBM50 có tỷ lệ nội tạng trong khoang bụng thấp hơn đáng kể so với cá ăn khẩu phần đối chứng hoặc FSBM10. Chỉ số gan-thể trọng và yếu tố điều kiện không bị ảnh hưởng bởi các tác động của khẩu phần ăn. Nghiên cứu này cho thấy rằng có thể thay thế lên tới 20% protein từ bột cá trong khẩu phần ăn của cá mú đen non bằng protein từ bột đậu nành lên men.

Ảnh hưởng thời gian và mức năng lượng siêu âm đến hiệu quả chiết isoflavone từ hạt đậu nành
Nghiên cứu này được tiến hành nhằm mục đích khảo sát ảnh hưởng đồng thời của thời gian siêu âm và mức năng lượng siêu âm đến hiệu quả chiết isoflavone từ hạt đậu nành với dung môi ethanol 80% (v/v). Tổng nồng độ isoflavone được xác định bằng 6 chất chuẩn isoflavone: daidzin, glycitin, genistin, daidzein, glycitein và genistein theo phương pháp phân tích sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC). Qua phân tích ANOVA 2 chiều để đánh giá ảnh hưởng thời gian siêu âm và mức năng lượng siêu âm đến hàm lượng isoflavone thu nhận đã chọn được điều kiện siêu âm là 70% mức năng lượng trong 15 phút. So với phương pháp trích ly bằng chiết khuấy thông thường (ở 30oC và 70oC) và siêu âm-chiết khuấy kết hợp, phương pháp siêu âm có hiệu quả chiết cao hơn phương pháp chiết khuấy ở 30oC nhưng thấp hơn chiết khuấy ở 70oC và siêu âm chiết khuấy kết hợp. Bên cạnh đó, quá trình siêu âm không ảnh hưởng đến hiệu quả bắt gốc tự do DPPH chứng tỏ các hợp chất chiết ra không bị giảm khả năng kháng oxi hóa.
#hạt đậu nành #chiết hỗ trợ siêu âm #isoflavone #mức năng lượng siêu âm #thời gian siêu âm #khả năng bắt gốc tự do DPPH #hoạt tính chống oxi hóa
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự ôxy hoá lipid trong quá trình lên men đậu nành bởi vi khuẩn Bacillus subtilis
Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định ảnh hưởng của các yếu tố (pH, nhiệt độ và thời gian lên men) trong quá trình lên men đậu nành bởi vi khuẩn Bacillus subtilis tới sự ôxy hoá lipid. Đậu nành được lên men ở các điều kiện khác nhau: pH (6,0, 6,3 - pH tự nhiên của nguyên liệu, 7,0 và 8,0), nhiệt độ (28, 33, 35 - nhiệt độ phòng và 38oC) và thời gian lên men (24, 36, 48 và 60 giờ). Để xác định mức độ ôxy hoá lipid, các thông số liên quan đến sự ôxy hoá như DPPH, IC50, hàm lượng lipid tổng, peroxyt, TBARs, hàm lượng acid béo tự do đã được xác định. Sự ôxy hoá lipid xảy ra mạnh nhất ở pH 6,0, nhiệt độ 35oC và thời gian lên men 60 giờ; sự ôxy hoá xảy ra thấp nhất ở pH 7,0, nhiệt độ 28oC và thời gian lên men 24 giờ.
#<i>Bacillus subtilis</i> #đậu nành #lên men #lipid #ôxy hoá
NGHIÊN CỨU XÁC ĐỊNH MỘT SỐ THÔNG SỐ CÔNG NGHỆ ĐỂ THỦY PHÂN VÀ LÊN MEN BÃ ĐẬU NÀNH BỞI CÁC CHẾ PHẨM Bacillus amyloliquefaciens N1 VÀ Lactobacillus fermentum DC4t2
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp - Tập 1 Số 1 - Trang 169-180 - 2017
Trong công trình này, chúng tôi đã nghiên cứu xác định một số thông số công nghệ thích hợp để thủy phân bã đậu nành bởi B. amyloliquefaciens N1 và lên men phế phụ phẩm này bởi L.fermentum DC4t2. Kết quả của công trình làm tiền đề cho nghiên cứu xử lý kết hợp hai chế phẩm vi sinh này nhằm nâng cao giá trị sử dụng của bã đậu nành. Các thông số công nghệ thích hợp trong việc ứng dụng chế phẩm L. fermentum DC4t2 để lên men bã đậu nành là: Mật độ gieo cấy ban đầu 106 CFU/g, thời gian ủ là 22 giờ, nhiệt độ 43oC. Kết quả nghiên cứu thủy phân bã đậu nành bởi B.amyloliquefacien N1 cho phép xác định được các thông số thích hợp là: mật độ gieo cấy ban đầu: 107 CFU/g và quá trình ủ được chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn ủ ở 37oC để vi khuẩn phát triển sinh khối và sinh tổng hợp enzyme ngoại bào với thời gian ủ thích hợp là 24 giờ. Giai đoạn ủ để tạo điều kiện cho enzyme hoạt động thủy phân trong 4 giờ với nhiệt độ thích hợp là 45oC.
#amylase #bã đậu nành #B. amyloliquefaciens #L. fermentum #lên men #protease
Thu nhận enzym xenlulaza từ nấm mốc Tricoderma harzianum để thủy phân bã đậu nành
Bài báo này trình bày kết quả nghiên cứu một số điều kiện công nghệ để thu nhận enzym xenlulaza từ nấm mốc Tricoderma harzianum và sử dụng enzym thu được cho quá trình thủy phân nguyên liệu bã đậu nành bằng phương pháp enzym. Điều kiện để Trichoderma harzianum sinh tổng hợp xenlulaza có hoạt lực enzym cao (4,40IU/ml) trên môi trường lên men bán rắn với tỉ lệ giống 5% có mật độ bào tử 7,8 108 tế bào/ml, nhiệt độ 30oC là tỷ lệ bã đậu nành bổ sung 5%, độ ẩm ban đầu 60% và thời gian nuôi cấy 120 giờ. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của tỉ lệ enzym/cơ chất, thời gian và nhiệt độ cho thấy, điều kiện tốt nhất thủy phân bằng enzym là tỉ lệ enzym/ cơ chất 4,5/5 (v/w), thời gian 132 giờ và nhiệt độ 50OC, lượng đường khử thu được là 5,523 g/l. Từ khóa: bã đậu nành, thủy phân, sinh tổng hợp, đường khử, hoạt lực enzyme
#bã đậu nành #thủy phân #sinh tổng hợp #đường khử #hoạt lực enzyme
Tổng hợp epoxy bằng phương pháp epoxy hóa dầu đậu nành và ứng dụng cải thiện tính dòn của composite nhựa epoxy thương phẩm
Nhựa epoxy tổng hợp từ dầu đậu nành (ESO), một nguồn nguyên liệu trong nước, được sử dụng để cải thiện tính giòn của nhựa epoxy và composite trên cơ sở sợi thủy tinh và nhựa epoxy thương phẩm. Kết quả khảo sát tính chất cơ học cho thấy sự có mặt của ESO làm tăng đáng kể độ bền va đập của nhựa epoxy thương phẩm và composite sợi thủy tinh/nhựa epoxy thương phẩm. Tuy nhiên, độ bền kéo, độ bền uốn và modul uốn của các mẫu nhựa và composite từ epoxy thương phẩm đều giảm khi hàm lượng ESO tăng. Hơn nữa, sử dụng phương pháp phân tích nhiệt lượng quét vi sai (DSC) nhiệt độ hóa thủy tinh (tg) của nhựa epoxy thương phẩm với các hàm lượng ESO khác nhau (0%, 5%, 7%, 9% và 11%) được xác định. Kết quả cho thấy nhiệt độ hóa thủy tinh của nhựa epoxy giảm khi hàm lượng ESO tăng. Ngoài ra trong nghiên cứu này, phương pháp phổ hồng ngoại chuyển đổi Fourier cũng được sử dụng để phân tích nhựa epoxy thương phẩm và nhựa epoxy hóa từ dầu thực vật.
#composite #dầu đậu nành epoxy hóa #nhiệt lượng quét vi sai #tính chất cơ học #nhiệt độ hóa thủy tinh
NGHIÊN CỨU, THỬ NGHIỆM DUNG DỊCH DINH DƯỠNG HỮU CƠ TỪ BÃ ĐẬU NÀNH TRONG TRỒNG RAU ĂN LÁ THỦY CANH
Mục đích của nghiên cứu nhằm xác định nồng độ dung dịch dinh dưỡng hữu cơ được sản xuất theo quy trình của Han Kyu Cho và Atsushi Koyama (1997) từ bã đậu nành để trồng rau xà lách, cải ngọt bằng phương pháp thủy canh. Theo đó, dung dịch hữu cơ có thành phần chính gồm  Nitơ tổng số: 1968,23 mg/l, P2O5: 167,53mg/l, K2O: 420,91mg/l được khảo sát ở các nồng độ pha loãng từ 5-20 lần.  Kết quả nghiên cứu cho thấy, nồng độ pha loãng phù hợp cho sự phát triển của rau xà lách, cải ngọt từ 10 đến 15 lần, với khoảng nồng độ này độ Brix của rau sử dụng dinh dưỡng hữu cơ cao hơn dung dịch Knop từ 2,2 – 2,8 % đối với rau xà lách, 0,5 – 1,3 % đối với rau cải ngọt; đặc biệt hàm lượng NO3-  trong rau thương phẩm sử dụng dinh dưỡng hữu cơ thấp hơn 3 lần so với dung dịch Knop.
#Hydroponics #organic #hydroponic vegetables #hydroponic solution
Nghiên cứu sử dụng cellulase của Bacillus subtilis để thủy phân bã đậu nành
Trong nghiên cứu này chúng tôi tập trung khảo sát khả năng sinh enzyme cellulase của Bacillus subtilis trong môi trường nuôi cấy có chứa bã đậu nành. Đánh giá hiệu quả của việc sử dụng cellulase thu được để thủy phân bã đậu nành ở các nhiệt độ và thời gian thủy phân khác nhau, đồng thời tiến hành khảo sát khả năng thủy phân bã đậu nành bằng axit-enzyme. Kết quả nghiên cứu cho thấy, hoạt lực enzyme cellulase của B. subtilis cao nhất khi nuôi cấy vi khuẩn ở 370C, 120rpm/ phút, 48h trong môi trường chứa 3% bã đậu nành. Sử dụng enzyme thu được từ B. subtilis để thủy phân bã đậu nành ở 460C, pH=5 trong 72h thu được hàm lượng đường khử là 10 g/L. Khối lượng đường khử tạo thành thấp hơn 1,223 lần so với việc tiền thủy phân bã đậu nành bằng axit H2SO4 loãng rồi mới thủy phân bằng enzyme.
#Bacillus subtilis #cellulose #cellulase #thủy phân #bã đậu nành
Hệ thống biểu hiện tạm thời trong tế bào protoplast mesophyll đậu nành tiết lộ sự hình thành các cấu trúc giống như photobody GmCRY1 trong tế bào chất Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 62 - Trang 1070-1077 - 2019
Đậu nành (Glycine max (L.) Merr.), được trồng vì dầu thực vật và protein, là một trong những loại cây trồng quan trọng nhất trên toàn thế giới. Việc tạo ra các giống đậu nành chuyển gen ổn định và có thể di truyền có hiệu quả tương đối thấp; do đó, có một nhu cầu cấp thiết về một phương pháp chuyển gen tạm thời đơn giản và hiệu quả cao để cho phép điều tra chức năng gen trong đậu nành, từ đó giúp làm rõ và cải thiện các cơ chế phân tử điều tiết các thuộc tính nông học liên quan. Chúng tôi đã thiết lập một hệ thống biểu hiện tạm thời trong các tế bào protoplast mesophyll đậu nành và đạt được mức độ hiệu quả chuyển gen cao (lên tới 83,5%). Hoạt động tế bào con của protoplast được bảo tồn tốt, như được chứng minh bởi sự hình thành động của các photobody nhân GmCRY (NPs) và/hoặc các cấu trúc giống như photobody trong tế bào chất (CPs) đáp ứng với ánh sáng xanh. Bên cạnh đó, chúng tôi đã chỉ ra rằng các CP GmCRY1b đồng vị trí với GmCOP1b, một đồng loa của CONSTITUTIVE PHOTOMORPHOGENIC 1 (COP1) ở Arabidopsis thaliana, điều này cung cấp cái nhìn mới về vai trò tiềm năng của GmCRY1s trong tế bào chất.
#Đậu nành #chuyển gen tạm thời #protoplast #photobody #ánh sáng xanh #GmCRY1
Tổng số: 51   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6